Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự quy định tại Điều 332 BLHS năm 2015

Căn cứ pháp lý

Điều 332 BLHS năm 2015 quy định tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự như sau:

“Điều 332. Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự

Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình;

b) Phạm tội trong thời chiến;

c) Lôi kéo người khác phạm tội.”

Dấu hiệu pháp lý tại Điều 332 BLHS năm 2015

Trốn tránh nghĩa vụ quân sự là hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện.

Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện.

Tuy chỉ là lĩnh vực quản lý hành chính, nhưng liên quan trực tiếp đến việc thi hành Luật nghĩa vụ quân sự và việc tổ chức thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện lại do cơ quan quan sự địa phương thực hiện, nên có thê rnói tội phạm này xâm phạm trự tiếp đến hoạt động bình thường của cơ quan quân sự địa phương về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện.

Mặt khách quan của tội phạm

Người phạm tội này, có thể thực hiẹn một hoặc một số hành vi sau:

– Không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự;

– Không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ;

– Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện.

Không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng việc đăng ký nghĩa vụ quân sự theo quy định của pháp luật như: đã có lệnh gọi, nhưng không đến cơ quan quân sự đăng ký nghĩa vụ quân sự hoặc đến không đúng thời gian, địa điểm đăng ký; không khám sức khoẻ hoặc có hành vi gian dối khi khám sức khoẻ nhằm trốn tránh việc nhập ngũ.

Không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ là hành vi của người đã đăng ký nghĩa vụ quân sự, có lệnh gọi nhập ngũ nhưng không nhập ngũ hoặc đã đến nơi nhập ngũ lại bỏ trốn không thực hiện các thủ tục cần thiết để nhập ngũ. Nếu đã làm thủ tục nhập ngũ, đã trở thành quân nhân mà bỏ trốn thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà phạm tội “đào ngũ”.

Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện là trường hợp người có đủ điều kiện theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự phải có nghĩa vụ huấn luyện và đã có lệnh gọi tập trung huấn luyện nhưng không đến nơi tập trung huấn luyện hoặc có đến nhưng bỏ về nên không thực hiện được Chương trình huấn luyện.

Hậu quả của tội phạm này là những thiệt hại do hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện gây ra. Các thiệt hại này có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Vì vậy, chỉ cần xác định hành vi phạm tội và các dấu hiệu khách quan khác chứ không cần xác định hậu quả của tội phạm, nếu có thiệt hại xảy ra thì đó chỉ là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.

Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự quy định tại Điều 332 BLHS năm 2015
Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự quy định tại Điều 332 BLHS năm 2015

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự chỉ có thể là người đã được gọi thực hiện nghĩa vụ quân sự. 

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 18 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXII Bộ luật hình sự. Theo Luật nghĩa vụ quân sự 2015, Công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ; lứa tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi. Như vậy chủ thể của tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự thực hiện hành vi do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trốn tránh nghĩa vụ quân sự, gây ảnh hưởng đến kế hoạch tuyển quân, kế hoạch huấn luyện của cơ quan quân sự nhưng vẫn cố tình không thực hiện. Người phạm tội có thể thấy trước hậu quả của hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nhưng chủ yếu là bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra.

Người phạm tội có thể có nhiều động cơ khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện của xã hội và của gia đình người phạm tội. Ví dụ: Trong thời chiến, người phạm tội vì sợ chết, trong thời bình vì sợ gian khổ, có người vì sợ đi bộ đội  người yêu sẽ đi lấy chồng, có người vì sợ gia đình khó khăn.v.v… Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, việc xác định động cơ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Hình phạt tại Điều 332 BLHS năm 2015

Điều 332 BLHS năm 2015 quy định 02 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

– Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình;

b) Phạm tội trong thời chiến;

c) Lôi kéo người khác phạm tội.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 332 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin